Hiện nay các nước Âu – Mỹ, các nước Đông Âu chuyển đổi sang kinh tế thị trường, các nền kinh tế phát triển đều có mức lãi suất tiền gửi nội tệ, ngoại tệ 0%/năm, thậm chí một số nước còn duy trì lãi suất âm ( thu phí tiền gửi ) nhằm bảo đảm lãi suất cho vay cực thấp ( 2%- 5% – tùy thuộc đối tượng vay và thời hạn vay ) nhằm kích thích hệ thống doanh nghiệp & thị trường chứng khoán phát triển, đảm bảo an sinh xã hội cho người thu nhập thấp & trung bình mua nhà ở và chi tiêu tiêu dùng có lãi suất tín dụng cực thấp.
Các nước trong khối ASEAN như Thailan, Philipine, Malaysia, Singapore cũng đang có lãi suất tiền gửi ngắn hạn cho đồng nội tệ ở mức 0%, lãi suất tiền gửi dài hạn trong khoảng từ 0,2%-0,7%/năm .
Còn với nước ta tiền gửi VND cho kỳ hạn ngắn hạn & trung hạn đang ở mức từ 3,5% – 6,2%/năm là rất cao so với các nước nói trên và dẫn đến lãi suất cho vay gấp từ 2 – 3 lần . Đây là 1 bất lợi lớn cho cộng đồng doanh nghiệp VN cũng như đông đảo người tiêu dùng thuộc đối tượng thu nhập thấp và trung bình.
Tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam đã có những tiền đề vững chắc như các nước trong khu vực để có thể thực hiện đưa dần lãi suất tiền gửi về mức 0%/năm :
– Chính trị ổn định ;
– Nền kinh tế đã đang & tiếp tục phát triển với tốc độ cao hơn các nước trong khu vực và các nước Âu Mỹ ;
– Xuất khẩu đã, đang và tiếp tục tăng trưởng ở mức 2 con số , đã ở vị thế là quốc gia xuất siêu và hàng năm thu được nguồn ngoại tệ rất lớn nhờ xuất khẩu liên tục tăng trưởng ;
– Hàng năm có lượng kiều hối lớn hàng chục tỷ đô la gửi về ;
– Nếu dịch Covid được khống chế thì ngành du lịch tiếp tục phát triển nhanh và hàng năm thu về hàng chục tỷ đô la ;
– Dự trữ ngoại tệ tại NHNN tiếp tục tăng mạnh, dự trữ ngoại tệ mạnh và vàng trong dân có thể lên tới con số trên 500 tỷ đô la ;
– Thị trường chứng khoán phát triển mạnh trong thời gian qua, bất chấp dịch covid 19 , bên cạnh đó thị trường trái phiếu cũng phát triển nhanh và đang từng bước thu hút các nhà đầu tư cá nhân tham gia ;
– Hệ thống ngân hàng nội địa đã vững mạnh hơn trước rất nhiều ( xét về qui mô vốn và trình độ quản trị doanh nghiệp ), 1 số ngân hàng yếu kém đã bị giải thể hoặc được hợp nhất sáp nhập .
* Nhưng vì sao lãi suất tiền gửi và cho vay tại VN vẫn còn rất cao so với các nước trong khu vực và các nền kinh tế phát triển ? Và khó có thể hạ nhanh lãi suất tiền gửi tiết kiệm ?
Nguyên nhân cơ bản là VN chưa có được hệ thống giải pháp kiểm soát dòng tiền tiết kiệm và dòng tiền nhàn rỗi , để hướng nó vào các kênh đầu tư có lợi cho nền kinh tế, đồng thời cũng ngăn chặn được nó chảy vào các kênh không có lợi cho nền kinh tế như chảy vào thị trường bất động sản hay vào ngoại tệ.
Tại sao lại nói khó có thể hạ mạnh lãi suất tiền gửi tiết kiệm ?
Trong thời gian qua, Tân Thống đốc NHNN đã có giải pháp để hạ thấp lãi suất tiền gửi tiết kiệm so với trước kia. Mặt rất tích cực của giải pháp này là làm cho việc gửi tiền tiết kiệm không còn hấp dẫn như trước và vì thế đã xuất hiện 1 dòng tiền khổng lồ đổ vào thị trường chứng khoán và TTCK có thêm triệu nhà đầu tư mới . Trong lúc khó khăn do dịch covid- 19 này nhưng TTCK lại phát triển đã giúp cho hệ thống ngân hàng & cộng đồng doanh nghiệp trong nước tồn tại phát triển và thêm nhiều khả năng chống chọi với những khó khăn mới.
Tuy nhiên mặt hạn chế của giải pháp hạ lãi suất tiền gửi là cũng xuất hiện dòng tiền nhàn rỗi khổng lồ đổ vào thị trường bất động sản, đẩy giá đất tăng mạnh và nguy cơ gây khó khăn cho phát triển kinh tế & thu hút vốn đầu tư nước ngoài và cũng tác động mạnh tới an sinh xã hội khi hàng triệu người lao động khó có khả năng mua được 1 ngôi nhà cho chính mình và mặt không tích cực này sẽ cản trở mạnh khả năng hạ lãi suất tiền gửi,và như vậy dư địa hạ thấp lãi suất cho vay tín dụng là không còn nhiều .
Như phân tích ở trên, nước ta đã có nhiều tiền đề khách quan vững chắc để hạ nhanh lãi suất tiền gửi tiết kiệm nhưng muốn thực hiện thì Chính phủ phải thiết lập các giải pháp để kiểm soát được dòng tiền nhàn rỗi, để điều tiết nó chảy vào các kênh đầu tư có lợi cho nền kinh tế và ngăn không cho nó chảy vào các kênh có hại cho nền kinh tế .
Hiệp Hội Các Nhà Đầu tư tài chính Việt Nam ( VAFI ) hiến kế Chính phủ ban hành các giải pháp sau để đưa dần lãi suất tiền gửi về mức 0%/năm :
1/ Bộ Tài chính khẩn trương xây dựng Luật Thuế tài sản theo hướng hạn chế mạnh dòng tiền đầu cơ chảy vào thị trường bất động sản , đồng thời kiểm soát để không cho tăng giá đất, áp dụng thu thuế tài sản lũy tiến từ căn nhà thứ hai trở đi với phương châm ban đầu có thể ở mức thấp đủ để ngăn ngừa dòng tiền đầu cơ sau đó tăng dần như thông lệ các nước . Giải pháp này là điều kiện tiên quyết để hạ nhanh lãi suất tiền gửi tiết kiệm .
2/ Hướng mạnh dòng tiền nhàn rỗi chảy mạnh vào thị trường trái phiếu với lãi suất huy động thấp, ở mức dưới 2 %/năm và như vậy hệ thống ngân hàng sẽ huy động được nguồn vốn khổng lồ với kỳ hạn dài để làm cơ sở cho vay trung hạn , dài hạn với lãi suất cho vay thấp dưới mức 5%/năm. Để làm được việc này thì :
– Bộ Tài chính cần sửa chính sách để bỏ thuế chuyển nhượng trái phiếu, thuế lợi tức trái phiếu cho các đối tượng tổ chức, cá nhân đầu tư nhằm góp phần hạ thấp lãi suất huy động.
– Tiền gửi tiết kiệm hiện nay không phải chịu bất kỳ khoản thuế nào nhưng tại sao đầu tư vào trái phiếu thì phải chịu thuế trong khi huy động vốn dài hạn qua kênh trái phiếu quan trọng hơn rất nhiều so với tiền gửi tiết kiệm ở kỳ hạn ngắn ?
– Ngân hàng nhà nước cần rà soát luật hiện hành để đảm bảo người dân khi đầu tư vào trái phiếu do hệ thống ngân hàng phát hành thì được bảo đảm tiền đầu tư như là tiền gửi tiết kiệm, cần thiết phải có chính sách bảo đảm này để hướng được dòng tiền nhàn rỗi vào kênh đầu tư dài hạn .
3/ Khi lãi suất tiền gửi đã giảm mạnh , để phòng trường hợp 1 phần dòng tiền nhàn rỗi đầu cơ ngoại tệ thì ngân hàng nhà nước cần ban hành chính sách thu phí tiền gửi ngoại tệ ở 1 mức nhất định nhằm đảm bảo chính sách tỷ giá ổn định và không làm mất cân đối kinh tế vỹ mô.
4/ Kiểm soát chặt thâm hụt ngân sách hàng năm, khi qua được dịch Covid 19 thì tỷ lệ thâm hụt ngân sách và nợ công cần giảm dần để tăng cường tiềm lực tài chính quốc gia, đủ sức đương đầu với mọi cuộc khủng hoảng có thể diễn ra trong tương lai. Bộ Tài chính và Bộ KHĐT cần tham khảo chính sách chi tiêu ngân sách của người Đức.
5/ Hệ thống ngân hàng trong nước tiếp tục được củng cố theo hướng loại bỏ ngân hàng yếu kém, cải thiện cơ cấu cổ đông bằng việc tăng cường cổ đông tổ chức, cổ đông chiến lược thật sự, hạn chế dần tình trạng ngân hàng thuộc sở hữu của 1 tập đoàn và phải ngăn ngừa tình trạng tham nhũng trong bất kỳ ngân hàng nào.