Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam ( VAFI) đề xuất 6 giải pháp nhằm góp phần nhanh chóng ổn định hoạt động của TTCK trong bối cảnh hiện nay :
1/ Đề nghị Ngân hàng nhà nước giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc của hệ thống Ngân hàng thương mại từ 11% xuống mức 8% :
– VAFI ủng hộ sự cần thiết cần khống chế tỷ lệ dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại trong thời kỳ này là 30% nhằm giúp các NHTM có thời gian quản lý tốt công tác tín dụng, tuy nhiên việc để tỷ lệ dữ trữ quá cao là không phù hợp khi nguồn cung tiền không dồi dào so với nhu cầu tăng trưởng thật sự của nền kinh tế.
– Việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm cải thiện nguồn cung tiền, tạo tiền đề khống chế việc tăng lãi xuất huy động vốn, đồng thời có điều kiện để không tăng và tiến tới giảm lãi xuất trần cho vay.
– Chống lạm phát hiện nay không chỉ có chính sách thắt chặt tiền tệ mà còn cần phải nhiều giải pháp kinh tế đồng bộ khác. Đề đề ra được những giải pháp chống lạm phát thích hợp thì điều tiên quyết là cần phải tìm hiểu kỹ những nguyên nhân cơ bản.
– Đừng hoảng hốt và có tư duy quá tiêu cực về lạm phát. Trong lạm phát có nhiều yếu tố tích cực, xin nêu 1 ví dụ sau :
+ Giá gạo trên thị trường thế giới đã tăng gấp khoảng 3 lần từ đầu năm đến nay, nguyên nhân cơ bản là ngành sản xuất lương thực đã trở thành 1 ngành năng lượng, thế giới dùng lương thực để thay cho dầu, đây là cơ hội tốt để xoá đói giảm nghèo cho 75% dân số VN .
+ Cơ hội trên đã dần hiện thực hoá khi vụ hè thu năm nay diện tích trồng lúa tăng thêm 1,2 triệu ha.
+ Như vậy đề đẩy nhanh việc xoá đói giảm nghèo cho 75% dân số VN thì cần nhiều giải pháp thích hợp và trong đó việc đẩy mạnh tăng tín dụng cho khu vực nông thôn là hết sức cần thiết , như vậy chính sách thắt chặt tín dụng có phù hợp với thời cơ này hay không ?
– VAFI sẽ có 1 văn bản thuyết trình kỹ về giải pháp nói trên.
2/ Hệ thống giải pháp để giải chấp cổ phiếu cầm cố có tổ chức và có hiệu quả :
2.1. Cho phép các ngân hàng thương mại cổ phần được bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài với tỷ lệ không quá 5%/ vốn điều lệ theo cơ chế của Ngân hàng thương mại nhà nước thực hiện cổ phần hoá . Thực hiện chế độ đăng ký và báo cáo thay vì phải xin phép.
2.2. Không thực hiện việc bán ồ ạt cổ phiếu cầm cố khi tới hạn giải chấp , thay vào đó vẫn tiếp tục thực hiện việc vay nợ từ cầm cố chứng khoán nếu như nhà đầu tư vẫn có khả năng trả lãi hàng tháng , hàng quý cho ngân hàng thươn mại :
– Trong thời gian vừa qua, việc TTCK suy giảm liên tục có nguyên nhân từ nguồn cung cổ phiếu cầm cố được bán không có tổ chức, kết quả là TTCK mất dần tính thanh khoản, đồng thời NHTM cũng không bán được cổ phiếu cầm cố. Khi đã không bán được cổ phiếu cầm cố thì bán làm gì, việc này chỉ không có lợi cho các NHTM.
– Theo tìm hiểu của VAFI thì nguồn cổ phiếu cầm cố trên các sàn giao dịch không còn nhiều, tuy nhiên việc giải chấp trong điều kiện tính thanh khoản của thị trường kém thì không có hiệu quả.
– Nhiều nhà đầu tư đang mắc kẹt từ cổ phiếu cầm cố nhưng họ vẫn có khả năng trả lãi cho ngân hàng.
2.3. Xử lý loại cổ phiếu cầm cố mà nhà đầu tư không có khả năng thanh toán các khoản lãi đến hạn :
– Đề nghị Chính phủ cho phép các Ngân hàng thương mại nhà nước chuyển các khoản nợ trên thành khoản đầu tư cổ phiếu của các NH.
– Nhìn về dài hạn thì hầu như các loại cổ phiếu cầm cố đều là cổ phiếu tốt chứ không phải như những dây chuyền thiết bị lạc hậu hoặc không phải như những khoản nợ xấu từ các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả.
– Việc chuyển nợ thành khoản đầu tư chứng khoán của NHTMNN sẽ mang lại giá trị lớn hơn nhiều giá trị cầm cố trong tương lai.
– Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần thì cũng nên có cách làm tương tự. Nhìn chung dư nợ cho vay đầu tư chứng khoán của nhiều ngân hàng cổ phần là không lớn .
– Trước kia Các công ty chứng khoán cạnh tranh không lành mạnh, giành giật khách hàng bằng mọi giá như áp dụng các dịch vụ cho vay ngắn hạn để nhà đầu tư lướt sóng không tuân thủ đúng các qui định pháp luật như mua khống, bán khống, năng giá trị tài sản cầm cố ở mức lớn bất chấp rủi ro….mà không hề khuyến cáo về mức độ rủi ro cho khách hàng khi sử dụng các dịch vụ đó , không có chính sách chọn lọc khách hàng trong việc sử dụng các dịch vụ cho vay cầm cố chứng khoán dưói nhiều hình thức ;
– Khi xử lý cổ phiếu cầm cố trong giai đoạn áp dụng biên độ giao dịch +- 1% thì sống trên lưng các nhà đầu tư bằng việc đòi tỷ lệ tiền hoa hồng khi chào bán cổ phiếu cho các nhà đầu tư và kể cả nhà ĐTNN;
– Tư vấn niêm yết và chào bán cổ phiếu phát hành thì có tình trạng đánh bóng quá mức cổ phiếu của 1 số doanh nghiệp ;
– Tư vấn cho 1 số doanh nghiệp đại chúng về việc tổ chức đại hội cổ đông 1 cách chiếu lệ và mất dân chủ như bó hẹp thời gian họp ĐHCĐ, đưa ra biểu quyết trọn gói cùng 1 lúc nhiều nội dung quan trọng, hay lấy kiến nhà đầu tư bằng thư và có nhiều nội dung có xung đột với quyền lợi nhà đầu tư như phát hành cổ phiếu ưu đãi cho người lao động, cho HĐQT….
– Tư vấn các quyết định mua bán cho nhà đầu tư 1 cách không chuyên nghiệp, không thận trọng và có thể xung đột lợi ích từ các nhân viên môi giới chứng khoán . Thiệt hại xảy ra đối với nhiều nhà đầu tư mới chưa có kinh nghiệm . Thực ra trình độ của nhân viên môi giới là rất thấp, để không xảy ra điều này thì tốt nhất là các công ty chứng khoán ra qui định cầm nhân viên môi giói đưa ra những lời tư vấn mua bán cổ phiếu cho nhà đầu tư.
– Trong bối cảnh TTCK mất tính thanh khoản và mất niềm tin như hiện nay thì 1 số CTCK có biểu hiện thúc giục UBCKNN mở lại biên độ như cũ hòng để TTCK rơi tự do nhanh hơn, hòng mua được cổ phiếu giá bèo mà không quan tâm đến quyền lợi các khách hàng của mình . Thực ra với cách thức tư duy như vậy thì chỉ 2 năm nữa thôi sẽ có khoảng 80% công ty chứng khoán phải tiền hành thủ tục giải thể, phá sản doanh nghiệp vì :
+ Đề xuất của họ không phải là giải pháp ổn định TTCK ;
+ Đề xuất này sẽ huỷ hoại niềm tin của các nhà đầu tư, sẽ phá huỷ lối tư duy đầu tư dài hạn ;
+ Sẽ không thể khôi phục được tính thanh khoản của TTCK và như vậy thì các CTCK sẽ sống bằng những dịch vụ gì ?
– Trong thời điểm hiện nay, tất cả các công ty chứng khoán cần phải đổi mới tư duy, cần phải có ý thức cộng đồng, cần phải có ý thức trách nhiệm với các nhà đầu tư thì mới có thể tồn tại được.
3/ Kêu gọi các công ty niêm yết, công ty đại chúng kinh doanh hiệu quả còn nhiều vốn lưu động cùng phối hợp tại “1 thời điểm thuận lợi “ mua vào cổ phiếu quỹ với tỷ lệ vốn bằng khoảng 5% mức chi trả cổ tức bằng tiền mặt:
– Mua cổ phiếu quỹ trong giai đoạn hiện nay sẽ có những tác dụng sau :
+ Thể hiện trách nhiệm với các cổ đông của mình đồng thời tạo niềm tin cho các nhà đầu tư ;
+ Tạo tính thanh khoản cho cổ phiếu ;
+ Đây là khoản đầu tư rất tốt khi mua ở mức quá rẻ và sẽ thu được giá trị gia tăng trong tương lai gần ;
– Việc mua cổ phiếu quỹ cần đồng nhất ở thời điểm thuận lợi nhằm hợp lực cộng hưởng ;
– Các nhà quản lý tại các công ty đại chúng cần phải ý thức được rằng mình cũng là 1 chủ thể của TTCK, trong lúc này tất cả các bên tham gia TTCK cùng chung tay khôi phục ổn định thị trường thì sẽ tạo môi trường thuận lợi để các công ty huy động được vốn với giá vốn rẻ sau này.
4/ Tất cả các nhà đầu tư chứng khoán, là tổ chức hay cá nhân, là NĐT nước ngoài hay NĐTTN trong bối cảnh hiện nay đều cần phát huy, tăng cường phát huy hơn nữa ý thức cộng đồng, cùng chung tay khôi phục và phát triển TTCK thì VAFI tin rằng TTCK chắc chắn sẽ được hồi phục :
– Chỉ 1 yêu cầu rất đơn giản là nếu như các nhà đầu tư không gặp khó khăn nợ nần thì không bán cổ phiếu ra khi mặt bằng cổ phiếu ở mức quá thấp.
– Các nhà đầu tư tổ chức cùng đồng tâm hiệp lực mua vào ;
– Nếu như tất cả các nhà đầu tư đều nghĩ rằng cần phải duy trì sự tồn tại và hoạt động lành mạnh của TTCK thì cần ra tay hành động và chỉ với những yêu cầu không phức tạp như trên ;
– Nếu như có những ý kiến cho rằng cần nhấn chìm TTCK xuống đề mua được cổ phiếu giá bèo thì những tư tưởng này là sai lầm :
+ TTCK càng đi xuống thì niềm tin càng mất và khi niềm tin không còn thì TTCK sẽ là 1 mối đe doạ cho những ai còn tham gia thị trường này ;
+ TTCK càng suy giảm thì càng khó chữa bệnh, ngay cả khi những giải pháp mạnh ra đời thì cũng không còn có tác dụng, NĐTNN và NĐTTN sẽ xa lánh TTCKVN.
+ TTCK không khôi phục được tính thanh khoản thì mua cổ phiếu giá rẻ có ý nghĩa gì ?
5/ Đề nghị UBCKNN nhanh chóng áp dụng biên độ giao dịch lệch thống nhất trên cả 2 sàn là – 1%, + 3% ; Vì sao áp dụng biên độ lệch ?
– Đưa ra tín hiệu rằng đa phần giá cổ phiếu hiện nay đã quá rẻ , thấp hơn nhiều so với giá trị thực, thấp hơn nhiều so với giá mà các nhà đầu tư tổ chức đã tính toán mua đầu tư ;
– Ngăn chặn tình trạng đầu cơ giá xuống ;
– Trấn an tâm lý các nhà đầu tư ;
– Đây là giải pháp đầu tiên trong các giải pháp nêu trên. Để đảm bảo thành công của các giải pháp nói trên thì giải pháp áp dụng biên độ lệch phải đi trước .
– Những giải pháp liên quan đến các cơ quan nhà nước không thể ra đời nhanh chóng, chúng ta phải chấp nhận thực trạng này và phải có độ trễ về thời gian. Khi TTCK hồi phục thì chúng ta có thể nới dần biên độ và khoảng thời gian này là không lâu.