Làm thế nào để thúc đẩy sự ra đời và phát triển của hệ thống các nhà đầu tư tổ chức ? Bằng văn bản này , Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam ( VAFI ) xin trình bày chi tiết về Nhóm giải pháp thứ Hai : Cần nghiên cứu để loại bỏ những rào cản và bất bình đẳng đang tồn tại hiện nay đối với các tổ chức đầu tư tài chính , đặc biệt là những bất cập về cơ chế thuế thu nhập doanh nghiệp trong đầu tư cổ phiếu và trái phiếu cho nhà đầu tư tổ chức trong nước :
1/ Phân tích những vấn đề còn tồn tại trong chính sách thuế về đầu tư chứng khoán đang áp dụng cho nhà đầu tư tổ chức trong nước:
– Nhà đầu tư tổ chức nước ngoài ( pháp nhân được thành lập theo pháp luật nước ngoài thì áp dụng hình thức thuế khoán ( thuế thu nhập chứng khoán = tổng giá bán x 0,1%) – đây là 1 hình thức phù hợp thông lệ quốc tế và và đáp ứng được việc thu thuế đơn giản đối với những tổ chức nước ngoài không cần có mặt ở VN.
– Nhà đầu tư cá nhân ( trong nước và nước ngoài ) cũng thu theo hình thức thuế khoán ( Luật thuế thu nhập cá nhân ) – Đây là hình thức phù hợp nhất.
– Đối với nhà đầu tư là pháp nhân trong nước thì thu nhập tính thuế = doanh thu bán chứng khoán – giá mua chứng khoán – chi phí và số thuế phải nộp được và nhân với thuế suất 25% ( theo Luật thuế thu nhập DN). Đây là 1 mức thuế quá cao nếu so với đối tượng là tổ chức nước ngoài và cá nhân đầu tư chứng khoán và cũng rất cao so với thông lệ quốc tế.
– Như vậy thực tế chúng ta có 2 phương pháp tính thuế & thu thuế khác nhau cho 2 loại đối tượng kinh doanh chứng khoán .
– Khi mà phương pháp tính thuế không đồng nhất cho mọi đối tượng thì đã tạo 1 sân chơi không bình đẳng trong việc thực thi nghĩa vụ nộp thuế :
+ Nhiều pháp nhân trong nước có hoạt động đầu tư chứng khoán ( thường là những doanh nghiệp không có bộ máy tổ chức bài bản ) thì tìm cách lách thuế để tránh việc phải đóng thuế cao như giao tiền cho cá nhân kinh doanh chứng khoán để được miễn thuế , hay trong việc mua bán cổ phiếu 0TC thì kê giá mua cao, bán gía thấp trong các hợp đồng mua bán với cá nhân nhằm tạo thu nhập lỗ hoặc lãi ít. Trong trường hợp kinh doanh thua lỗ thì kê khai trích lập dự phòng nghiêm chỉnh để được giảm thuế , như vậy những đối tượng doanh nghiệp này áp dụng cả 2 phương pháp tính thuế mà cơ quan thuế không thể phát hiện được. Trong những trường hợp như thế này thì 1 trong những nguyên nhân xảy ra vi phạm cũng do cơ chế chính sách về thuế thu nhập doanh nghiệp còn bất hợp lý .
+ Những doanh nghiêp hoạt động bài bản và công khai minh bạch thì không thể áp dụng cách thức hạch toán như trên và như vậy họ phải chịu thiệt thòi do cơ chế .
2/ Từ những bất cập về cơ chế thuế hiện hành dẫn đến hậu quả :
– Nếu các nhà đầu tư thành lập quỹ đầu tư chứng khoán hoặc công ty chuyên đầu tư chứng khoán thì phải chịu thuế cao rất nhiều so với cá nhân và tổ chức nước ngoài , vì vậy trên thực tế họ khó có thể thành lập pháp nhân mà chỉ muốn đầu tư theo hình thức cá nhân để không bị thu thuế cao, như vậy sẽ hạn chế sự ra đời của nhiều tổ chức kinh doanh chứng khoán .
– Chỉ một số ít người rất giỏi về đầu tư chứng khoán và có uy tín kinh nghiệm thì mới mạnh dạn thành lập công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, họ dùng tài năng chất xám để bù vào những thua thiệt do phải đóng thuế cao, tuy nhiên việc huy động vốn thành lập quỹ hoặc pháp nhân sẽ khó khăn hơn nhiều .
– Thị trường chứng khoán hoạt động được hơn 9 năm nhưng cho đến nay ngành công nghiệp quản lý quỹ VN mới chỉ có quy mô huy động vốn bằng các quỹ của 1 công ty quản lý quỹ nước ngoài có mặt tại VN ở qui mô lớn .
– Như vậy rào cản về chênh lệch trong nghĩa vụ đóng thuế trên thực tế khó thuyết phục được nhiều người lập quỹ đầu tư hay bỏ vốn vào các quỹ đầu tư.
3/ Những hệ quả về chính sách thuế TNDN trong đầu tư trái phiếu :
– Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trong đầu tư trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp là 25% cho nhà đầu tư trong nước ( từ chênh lệch giá bán và lợi tức trái phiếu ) trong khi nhà nước có chủ trương không thu thuế tiền gửi ngân hàng .
– Việc áp thuế suất 25% làm cho lãi suất huy động trái phiếu thường tăng thêm từ 2% – 3%. Khi mặt bằng huy động vốn của hệ thống ngân hàng ở mức cao như hiện nay ( chủ yếu là huy động tiền gửi ngắn hạn ) thì việc phát hành trái phiếu chính phủ là hết sức khó khăn vì nhà nước không muốn phát hành TPCP ở mức lãi suất cao. TPCP đã phát hành khó khăn thì việc phát hành TPDN lại càng gặp khó khăn nhiều hơn .
– Thị trường trái phiếu đã có 2 năm khởi sắc ( năm 2006, 2007 ), tuy nhiên từ năm 2008 đến nay thị trường trái phiếu chưa phục hồi như thị trường cổ phiếu và đang trở nên quá buồn tẻ. Bộ Tài chính và SSC cần đánh giá sâu sắc về những chuyển động của thị trường trái phiếu trong thời gian vừa qua .
– Làm cách nào để hệ thống ngân hàng thương mại nước ta huy động được nguồn vốn vay trung và dài hạn, thay cho hình thức huy động ngắn hạn ? Có như vậy thì thị trường tiền tệ mới bảo đảm thanh khoản và phát triển một cách bền vững.
4/ Đề xuất của VAFI về phương pháp tính thuế :
– Hoạt động đầu tư chứng khoán là 1 hoạt động rất đặc thù và đầy rủi ro so với các ngành sản xuất kinh doanh khác , vì vậy cần có những qui định để phù hợp với thông lệ quốc tế đồng thời tạo 1 sân chơi bình đẳng cho mọi đối tượng.
– Nhà đầu tư tổ chức trong nước, nhà đầu tư nước ngoài và cá nhân đầu tư phải cùng 1 phương pháp tính thuế.
– Trong giai đoạn hiện nay của TTCK, khi mà thị trường OTC chưa đi vào hoạt động có tổ chức thì nên áp dụng phương thức thuế khoán cho mọi đối tượng đầu tư cổ phiếu, còn về mức thuế suất sẽ được điều chỉnh tăng theo sự phát triển ổn định của TTCK trong từng thời kỳ.
– Đối với hoạt động đầu tư trái phiếu thì nhà nước không nên thu thuế thu nhập doanh nghiệp ( như không thu thuế TNCN với hoạt động tiền gửi ngân hàng ) .
– Kiến nghị của VAFI về việc miễn và giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong kinh doanh chứng khoán cho các tổ chức đầu tư trong nước không phải là việc kêu gọi nhà nước có chính sách ưu đãi cho nhóm đối tượng trên mà chỉ đơn thuần là cần xây dựng 1 chính sách thuế mang tính thống nhất, đặc thù phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời phải hướng đến mục tiêu xây dựng TTCK một cách bền vững để phát triển kinh tế. Cần quan niệm ngành chứng khoán là 1 ngành thúc đẩy sự gia tăng việc thu các loại thuế từ tất cả các doanh nghiệp dịch vụ sản xuất kinh doanh./.