Nghị định 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 qui định chi tiết một số điều của Luật Quản lý Thuế, trong đó có thực thi đánh thuế với hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu & cổ phiếu thưởng – Nhận định sắc thuế này sẽ ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của doanh nghiệp, đến tính thanh khoản & ổn định của thị trường chứng khoán và cũng là lực cản cho nỗ lực giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế , vì vậy các Hiệp hội & Tổ chức nghề nghiệp sau : Hiệp hội Các Nhà Đầu tư Tài chính VN, Hiệp hội Kinh doanh Chứng khoán, Câu lạc bộ các Công ty Quản lý Quỹ, Câu lạc bộ các Công ty Niêm yết có ý kiến Đề xuất với Thủ Tướng Chính phủ và Bộ Trưởng Bộ Tài chính chưa nên áp dụng các sắc thuế này. Các Hiệp Hội phân tích các lý do sau :
1/Bản chất của trả cổ tức bằng cổ phiếu và trả cổ phiếu thưởng :
– Trả cổ tức bằng cổ phiếu & trả cổ phiếu thưởng (từ các quỹ của doanh nghiệp) cho nhà đầu tư chứng khoán không làm thay đổi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp ( tại thời điểm chia ), không làm giảm lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp, không làm thay đổi tỷ lệ sở hữu cổ phần của từng cổ đông, tất cả cổ đông công ty không nhận 1 đồng tiền mặt nào như hình thức chia cổ tức bằng tiền mặt.
– Ở các hình thức này, vốn điều lệ doanh nghiệp tăng lên chỉ từ việc chuyền lợi nhuận và phần vốn ở các quỹ để tăng vốn điều lệ, đồng thời số cổ phần cổ đông tăng lên theo tỷ lệ chia. Về mặt pháp luật , tại thời điểm chia tách qui định phải giảm giá trị thị trường cổ phiếu theo tỷ lệ chia tách và về nguyên tắc thì giá trị cổ phiếu của cổ đông không thay đổi .
– Trả cổ tức bằng cổ phiếu hay trả cổ phiếu thưởng không phải là hình thức phân phối lợi nhuận sau thuế như việc phân phối lợi nhuận sau thuế để trả tiền thưởng cho người lao động, cho ban quản lý hay sử dụng 1 phần lợi nhuận sau thuế để phân phối cổ tức tiền mặt cho cổ đông hiện hữu .
2/ Tại sao đa phần các doanh nghiệp ưa thích hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu và trả cổ phiếu thưởng ?
– Khi thực hiện trả cổ tức bằng cổ phiếu và cổ phiếu thưởng thì số cổ phần cổ đông tăng lên, giá trị thị trường của cổ phiếu giảm xuống và làm cho các nhà đầu tư có cảm giác giá không cao như trước . Về lâu dài thanh khoản cổ phiếu tăng lên khi tính đại chúng cổ phiếu gia tăng vì đã làm tăng khả năng thu hút thêm các nhà đầu tư nhỏ tham gia đầu tư vào cổ phiếu đó.
– Với các Ban quản trị doanh nghiệp nghiêm túc thì việc trả cổ tức bằng cổ phiếu hay cổ phiếu thưởng phải được xem xét kỹ, bởi càng tăng vốn điều lệ thì trong tương lai càng phải dành nhiều lợi nhuận hơn để trả cổ tức bằng tiền mặt, cho nên chỉ có những doanh nghiệp quản trị tốt, luôn tăng trưởng doanh thu lợi nhuận thì mới quan tâm đích thực đến hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu hay trả cổ phiếu thưởng .
– Trả cổ tức bằng cổ phiếu và cổ phiếu thưởng luôn luôn giúp cho doanh nghiệp hạn chế chia cổ tức bằng tiền mặt hoặc không phải chia cổ tức bằng tiền mặt cho nên trả cổ tức bằng cổ phiếu và trả cổ phiếu thưởng là những hình thức huy động vốn. Các văn bản về chứng khoán của Bộ TC đã khẳng định điều này ;
– Những đối tượng doanh nghiệp cần huy động vốn lớn để đầu tư mở rộng sản xuất, để tăng tiềm lực tài chính, để xử lý nợ xấu đang rất cần hình thức này, chẳng hạn như khối các ngân hàng thương mại cổ phần trong nước ;
– Thị trường chứng khoán nước ta còn nhỏ bé, đơn giản, chưa có cơ chế và phương tiện nhiều như các nước phát triển để hỗ trợ tăng tính thanh khoản cho thị trường như chưa có sự tham gia trực tiếp của ngân hàng nhà nước vào thị trường chứng khoán, lãi suất cho vay tuy có hạ nhưng còn cao 2 đến 4 lần so với các nước trong khu vực, pháp luật chứng khoán chưa có hình thức chia nhỏ mệnh giá cổ phần để làm tăng tính thanh khoản của cổ phiếu….
– Với các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc và quản trị doanh nghiệp tốt thì trả cổ tức bằng cổ phiếu và trả cổ phiếu thưởng là sự ghi nhận thành tích kinh doanh, hứa hẹn doanh nghiệp còn phát triển và doanh thu lợi nhuận doanh nghiệp sẽ tăng và việc trả cổ tức bằng cổ phiếu hay cổ phiếu thưởng sẽ là sự kỳ vọng giá cổ phiếu sẽ tăng trong dài hạn .
3/ Mặt trái của việc trả cổ tức bằng cổ phiếu và cổ phiếu thưởng :
– Số cổ phần của doanh nghiệp tăng lên làm pha loãng cổ phiếu, cấu trúc cổ đông sẽ thay đổi và lượng cổ đông nhỏ lẻ tăng lên . tính ổn định giá kém đi.
– Hính thức trả cổ tức bằng cổ phiếu hay cổ phiếu thưởng có thể bị lạm dụng bởi các Ban quản trị chưa nghiêm túc với quyền lợi cổ đông;
– Vốn điều lệ tăng, lượng cổ phần cổ đông tăng lên nhưng có thể lợi nhuận doanh nghiệp không tăng, thậm chí giảm đi mạnh ;
– Với những Ban quản trị không tốt, tham nhũng, lừa đảo thì hành vi trả cổ phiếu thưởng là hành vi bán giấy lộn cho nhà đầu tư để lấy tiền thực.
– Cho nên trên thực tế nhiều nhà đầu tư rất cảnh giác với hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu và trả cổ phiếu thưởng .
– Sau khi trả cổ tức bằng cổ phiếu và cổ phiếu thưởng thì giá cổ phiếu có thể giảm và tăng : ( nói về thực trạng thị trường trước khi có thuế cổ tức , thuế cổ phiếu thưởng ) :
– Thực tế khi gần tới ngày thực hiện quyền nhận cổ phiếu trả cổ tức, cổ phiếu thưởng thì nhiều nhà đầu tư bán đi vì không muốn chịu cảnh “có thể rủi ro” khi cổ phiếu thưởng sau vài tháng mới về ;
– Thực tế giá nhiều loại cổ phiếu giảm sau khi chia tách , kể cả các doanh nghiệp kinh doanh rất hiệu quả;
– Có nhiều nguyên nhân làm giá cổ phiếu giảm sau khi cổ đông công ty nhận cổ phiếu trả cổ tức hay cổ phiếu thưởng :
+ Mua cổ phiếu giá cao ;
+ Pha loãng cổ phiếu;
+ Tình hình kinh tế trong nước và quốc tế thay đổi tác động vào kinh doanh của doanh nghiệp ….
– Nhưng nếu nhà đầu tư sau khi nhận được cổ phiếu trả cổ tức , cổ phiếu thưởng mà thua lỗ thì khoản thua lỗ này có được gọi là thu nhập từ đầu tư vốn hay không ? và họ sẽ không chỉ đóng thuế 0,1% trên giá trị chuyển nhượng mà là đóng thêm 5% trên giá trị chuyển nhượng cơ ; Đã thua lỗ lại càng kinh doanh thua lỗ vì thuế ?
4/ Đánh giá tác động của việc đánh thuế cổ tức trả cổ phiếu và cổ phiếu thưởng :
– Trả cổ tức bằng cổ phiếu hay trả cổ phiếu thưởng là để giúp doanh nghiệp hạn chế trả bằng tiền mặt, là để doanh nghiệp dành nhiều khoản lợi nhuận được giữ lại để đầu tư mở rộng sản xuất, khi doanh nghiệp phát triển , doanh thu lợi nhuận tăng lên thì các loại thuế nộp cho nhà nước ngày càng gia tăng.
– Nhưng nếu có thuế đánh vào cổ tức cổ phần và cổ phiếu thưởng thì đông đảo nhà đầu tư giảm bớt nhiệt tình với hình thức này vì sợ thiệt đơn thiệt kép : Thua lỗ do giá cổ phiếu giảm và bị đánh thuế lớn .
– Các nhà đầu tư sẽ đòi hỏi các doanh nghiệp phải chia cổ tức tiền mặt nhiều hơn, hạn chế hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu và cổ phiếu thưởng và như vậy với thị trường chứng khoán sẽ có hàng tỷ đô la được chia cho cổ đông thay vì được tái đầu tư để phát triển mở rộng sản xuất. Các doanh nghiệp phải vay nợ nhiều hơn, đầu tư mở rộng sản xuất sẽ bị hạn chế ;
– Nhưng với các doanh nghiệp đang khát vốn tự có như hệ thống ngân hàng cổ phần trong nước thì sao ? Phải hạn chế mạnh hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu, và cổ phiếu thưởng và hàng năm phải chia cổ tức bằng tiền mặt. Cần lưu ý rằng hệ thống ngân hàng nội địa đang bị tổn thương bởi tình hình Covid, đang rất cần giữ lại lợi nhuận sau thuế để tăng tiềm lực tài chính và xử lý nợ xấu. Mặt khác việc chia cổ tức bằng tiền mặt còn đang bị kiểm soát từ Ngân hàng nhà nước, không phải các ngân hàng cổ phần muốn chia tiền mặt theo yêu cầu cổ đông là được . Nếu đánh thuế vào hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu thì sẽ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu ngân hàng, và các ngân hàng sẽ gặp khó khăn khi huy động vốn từ nguồn lợi nhuận sau thuế .
– Đánh thuế vào hính thức trả cổ tức bằng cổ phiếu và cổ phiếu thưởng chính là việc cản trở cơ chế huy động vốn hàng năm và thường xuyên của các doanh nghiệp, hệ thống ngân hàng nội địa trong nước sẽ gặp khó khăn khi đang cần giữ lại nhiều lợi nhuận sau thuế để xử lý nợ xấu và các ngân hàng cũng sẽ gặp khó khăn với bài toán giảm lãi suất huy động và lãi suất cho vay.
– Từ lâu nước ta đã có chính sách doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng sản xuất thì được miễn giảm thuế – đây là chủ trương rất đúng đắn để khuyến khích phát triển sản xuất, cho nên không nên đánh thuế cổ tức và cổ phiếu thưởng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được huy động vốn thường xuyên từ thị trường chứng khoán.
– Nhân đây cũng phản ánh rằng cơ chế đánh thuế thu nhập cá nhân của VN còn rất đơn giản, sơ khai, chưa có 1 báo cáo thuế hàng năm đầy đủ và chi tiết cho từng cá nhân như các nước trong khu vực để có căn cứ xác định thu nhập của từng người dân .
– Tại các nước phát triển như Anh, Mỹ, EU họ có chính sách miễn các loại thuế cổ tức cho người về hưu, vì họ quan niệm dòng vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán là dòng vốn đẩy rủi ro và mạo hiểm cho nên phải có chính sách hợp lý khuyến khích các dòng vốn nhàn rỗi vào thị trường chứng khoán và từ các dòng vốn nhỏ lẻ đó hợp thành hàng triệu triệu dòng vốn làm cho hệ thống doanh nghiệp dễ dàng huy động được vốn và từ đó lãi suất cho vay sẽ rất rẻ . Chưa có thống kê về người về hưu tham gia thị trường chứng khoán ở VN, nhưng nhận thấy đối tượng này tham gia ngày càng đông đảo và trong tương lai sẽ là 1 lực lượng hùng hậu cho TTCKVN, tuy nhiên Bộ Tài chính đã có chính sách ưu đãi gì cho đối tượng này ?
– Tại thị trường chứng khoán VN, đang có rất rất nhiều nhà đầu tư cá nhân coi đầu tư chứng khoán là nghề nghiệp chính và hầu như không làm công việc khác, đối tượng này hiện nay không được giảm trừ gia cảnh cho các người phụ thuộc, không được khấu trừ thu nhập như đối tượng người lao động trong doanh nghiệp. Với thông lệ quốc tế thì người hành nghề chứng khoán sẽ được khấu trừ gia cảnh như người lao động trong doanh nghiệp. Nói như vậy để thấy rằng hoạch định chính sách thuế phải tính tới các đối tượng như người chuyên sống bằng đầu tư chứng khoán, người về hưu như các nước ….
– Tại sao Singapore trở thành Trung tâm tài chính của Châu Á và thế giới, có rất nhiều lý do nhưng các loại thuế chứng khoán của họ thấp và hấp dẫn hơn VN như họ không có thuế đánh vào hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu và cổ phiếu thưởng, không đánh thuế vào các giao dịch chuyển nhượng chứng khoán.
Từ các phân tích trên, các Hiệp Hội không đi xin ưu đãi về miễn giảm thuế cho hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu hay cổ phiếu thưởng mà chỉ phân tích mặt lợi, mặt hại của các phương thức đó và khuyến nghị chưa nên đánh thuế vào các hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu hay cổ phiếu thưởng để cho thị trường chứng khoán có nhiều cơ hội phát triển và thực sự đóng vai trò là mặt trận hàng đầu trong lĩnh vực phát triển kinh tế .