Tiếp theo văn bản góp ý lần đầu về Dự thảo ( ngày 29/5/2012 ) Thông tư hướng dẫn về thuế GTGT, thuế TNDN và thuế TNCN đối với lĩnh vực chứng khoán , Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam ( VAFI ) tiếp tục góp ý xây dựng Chính sách thuế cho Quỹ đầu tư chứng khoán được thành lập theo pháp luật trong nước như sau :
1/ Để xây dựng được 1 chính sách thuế khả thi cho loại hình Quỹ đầu tư được thành lập theo pháp luật trong nước ( gọi tắt là Quỹ đầu tư trong nước ) thì cần hiểu rõ bản chất hoạt động của Quỹ và vai trò của nó trong ngành công nghiệp chứng khoán :
1.1. Công ty quản lý Quỹ có các chức năng cơ bản :
+ Hoạt động tự doanh : Bằng chính nguồn vốn của công ty quản lý quỹ ;
+ Cung cấp dịch vụ quản lý đầu tư chuyên nghiệp cho các đối tượng đầu tư dưới các hình thức :
> Quản lý đầu tư riêng lẻ cho từng cá nhân, từng tổ chức trong nước và ngoài nước theo các hợp đồng ủy thác đầu tư ;
> Huy động vốn để thành lập Quỹ đầu tư. Nguồn vốn đổ vào Quỹ đầu tư từ các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài. Đây là hình thức quản lý vốn cho 1 tập thể các nhà đầu tư ;
– Qua phân tích trên để thấy rằng khi nhà đầu tư mua chứng chỉ quỹ ( sơ cấp và thứ cấp ) là sự ủy thác tự động vào công ty quản lý quỹ đầu tư. Đầu tư vào Quỹ đầu tư hoàn toàn khác với đầu tư vào doanh nghiệp dịch vụ sản xuất kinh doanh :
+ Quỹ đầu tư không phải là pháp nhân doanh nghiệp sản xuất kinh doanh;
+ Đầu tư vào Qũy là sự ủy thác để rổi sau đó công ty quản lý quỹ đầu tư vốn vào các doanh nghiệp ;
+ Chính sách thuế với Quỹ đầu tư hoàn toàn khác với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ;
1.2. Vai trò của ngành công nghiệp quản lý quỹ với thị trường chứng khoán và nền kinh tế :
– Bất kỳ quốc gia nào ( có trình độ quản lý hơn ta ) đều xác định ngành chứng khoán là ngành công nghiệp chủ đạo của nền kinh tế, trong đó ngành công nghiệp quản lý quỹ trong nước đóng vai then chốt ;
– Lực lưỡng quỹ đầu tư trong nước của các nước tiên tiến thường chiếm 30%-50% giá trị giao dịch thị trường và với tỷ lệ tương ứng trong việc nắm giữ cổ phần của các công ty đại chúng và niêm yết ;
– Ngành công nghiệp quản lý quỹ đóng vai trò then chốt trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế và cho cả hệ thống ngân hàng
– Phát triển được ngành công nghiệp quản lý quỹ sẽ làm tăng nhanh tính ổn định của TTCK cũng như tăng yếu tố cổ đông tổ chức trong hệ thống doanh nghiệp và từ đó có tác động dễ dàng thay đổi phương thức quản trị doanh nghiệp:
– Còn ở nước ta thì sao : hoàn toàn ngược so với thông lệ thế giới
+ Chỉ có vài quỹ đầu tư đang hoạt động, tuy nhiên thời hạn hoạt động sắp kết thúc ;
+ Trong 3 năm qua, không 1 công ty quản lý quỹ trong nước có khả năng huy động được vốn để thành lập quỹ đầu tư ; Một trong những nguyên nhân quan trọng là chính sách thuế cho Quỹ đầu tư quá cao, cao hơn rất nhiều so với các hình thức đầu tư chứng khoán trực tiếp không thông qua Quỹ ;
+ Chúng ta chưa tạo ra được nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của ngành công nghiệp quản lý quỹ ;
2/ Đề xuất cơ chế thuế cho Quỹ đầu tư trong nước :
2.1/ Những nguyên tắc cơ bản :
– Nhà đầu tư cá nhân trong nước và nước ngoài khi đầu tư vào Quỹ thông qua hoạt động mua , nắm giữ ,bán Chứng chỉ Quỹ đầu tư thì nghĩa vụ thuế tối thiểu của họ phải đảm bảo không cao hơn so với việc họ trực tiếp đầu tư vào chứng khoán ;
– Nhà đầu tư tổ chức nước ngoài khi đầu tư vào Quỹ thì nghĩa vụ thuế không cao hơn so với việc đầu tư trực tiếp vào chứng khoán ;
– Nhà đầu tư tổ chức trong nước cũng vậy ;
– Thông lệ thế giới thường ưu đãi về thuế cho tổ chức, cá nhân khi đầu tư vào Quỹ hơn hình thức đầu tư trực tiếp vì có như vậy mới tạo điều kiện thu hút nhiều vốn để thành lập nhiều quỹ đầu tư, thông lệ này khá phổ biến ở các nước đang phát triển ;
2.2/ Đề xuất cụ thể về chính sách thuế cho Quỹ đầu tư trong nước :
– Về trung hạn, cần có chính sách ưu đãi về thuế cho Quỹ đầu tư trong nước nhằm hình thành và phát triển cho được ngành công nghiệp quản lý quỹ ; Cơ chế ưu đãi này cần phải được sửa đổi bổ sung khi tiến hành việc sửa đổi bổ sung Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành ;
– Chính sách thuế tại Thông tư này :
+ Chưa thể tạo ưu đãi cho Quỹ đầu tư vì vướng Luật hiện hành ;
+ Tuy nhiên cần căn cứ vào đặc thù hoạt động của Quỹ và Luật Quản lý thuế để xây dựng cơ chế chính sách phù hợp ;
– Việc định ra cơ chế thuế cho Quỹ cũng cần căn cứ vào cơ cấu nguồn vốn :
+ Vốn từ nhà đầu tư cá nhân trong nước và nước ngoài, từ nhà đầu tư tổ chức nước ngoài thường chiếm khoảng 80% tổng vốn đầu tư của quỹ . Những đối tượng Góp vốn này đều áp dụng chính sách thuế khoán khi đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, với các sắc thuế sau:
> Thuế chuyển nhượng : Đều là 0,1% trên giá trị chuyển nhượng ( cho dù có lỗ và đánh trên từng giao dịch chuyển nhượng)
> Thuế lợi tức trái phiếu : Đều 5% trên tổng lợi tức nhận được
> Thuế cổ tức : 5 % trên số lợi nhuận được chia cho nhà đầu tư cá nhân trong nước và nước ngoài ;
+ Vốn từ nhà đầu tư tổ chức trong nước chiếm khoảng 20% tổng vốn đầu tư của quỹ . Đối tượng này có điều kiện hạch toán đầy đủ, có mã số thuế và chịu các thuế sau :
> Không chịu thuế chuyển nhượng : 0,1 %
> Không có thuế lợi tức, thuế cổ tức ;
> Áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 25% trên thu nhập chịu thuế ;
* Như vậy có 4 nhóm đối tượng đầu tư vào Quỹ và đang chịu 2 hình thức tính thuế : Thuế khoán và không thuế khoán, nhóm không chịu thuế khoán chiếm tỷ trọng nhỏ , vậy cơ chế tính thuế của Quỹ đầu tư sẽ ra sao ?
– Nếu theo Dự thảo thì phương pháp tính thuế cho Quỹ đầu tư trong nước là :
+ Không chịu thuế chuyển nhượng 0,1%
+ Không chịu thuế lợi tức ;
+ Nhà đầu tư tổ chức và cá nhân trong nước, nước ngoài chịu 25% thuế cổ tức ;
+ Nhà đầu tư cá nhân trong nước và nước ngoài phải chịu thêm 5% thuế cổ tức với lý giải là tính cho thuế thu nhập cá nhân ( khoản này là không hợp lý vì tất cả hoạt động đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân đều theo phương thức thuế khoán – Kinh doanh chứng khoán thua lỗ cũng phải nộp thuế );
+ Theo phương án trong Dự thảo thông tư thì vô cùng không hợp lý vì nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư cá nhân phải chịu nghĩa vụ thuế cao hơn rất nhiều so với việc họ trực tiếp đầu tư và như vậy công ty quản lý quỹ đầu tư sẽ không có điều kiện huy động được vốn đầu tư . ( ngay cả khi không có khoản thuế cổ tức 5% tính cho nhà đầu tư cá nhân)
* Vậy phương án nào là phù hợp cho quỹ đầu tư :
_ Áp dụng phương pháp thuế khoán cho Quỹ đầu tư trong nước
+ Thuế chuyển nhượng 0,1% tính cho từng giao dịch chuyển nhượng chứng khoán cho dù hoạt động đầu tư thua lỗ ;
+ Thuế lợi tức trái phiếu , lợi tức tiền gửi : 5%
– Phương pháp tính thuế này thể hiện sự bình đẳng tương đối về nghĩa vụ nộp thuế của nhà đầu tư cá nhân trong nước và nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Quỹ ( đầu tư ủy thác ) so với hình thức họ trực tiếp đầu tư chứng khoán ;
– Còn với đối tượng tổ chức trong nước ( nhóm thiểu số ) sẽ áp dụng thuế khoán khi đầu tư vào quỹ và khi họ nhận được cổ tức thì khoản này không phải chịu thuế thu nhập lần thứ hai ;